Luật pháp và chính phủ Kinh_tế_Hoa_Kỳ

Hoa Kỳ xếp hạng thứ 4 về chỉ số thuận lợi kinh doanh (Ease of Doing Business Index) năm 2012, thứ 18 về chỉ số tự do kinh tế thê giới xếp bởi học viện Fraser năm 2012, thứ 10 về chỉ số tự do kinh tế xếp bởi tạp chí Wall Street năm 2012, thứ 15 về tự do thương mại toàn cầu năm 2014,[309] và thứ 3 về chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Report).[310]

Theo xếp hạng chỉ số tự do kinh tế của tạp chí Wall Street và Quỹ Heritage năm 2014, Hoa Kỳ đã ra khỏi nhóm 10 nền kinh tế tự do hàng đầu. Nước Mỹ đã liên tục 7 năm giảm chỉ số tự do cạnh tranh này.[311] Chỉ số đo lường sự cam kết của mỗi quốc gia trong việc bảo đảm tự do kinh tế với số điểm từ 0 đến 100. Những quốc gia có tự do kinh tế thấp và nhận điểm thấp đối mặt với rủi ro kinh tế chững lại, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và làm suy giảm các điều kiện xã hội.[312][313] Báo cáo chỉ số tự do kinh tế năm 2014 chấm Hoa Kỳ 75,5 điểm và xếp ở vị trí thứ 12 trên thế giới, bị giảm nửa điểm và tụt 2 bậc so với năm 2013.[311]

Quy định pháp lý

Số lượng quốc gia trải qua khủng hoảng tài chính mỗi năm kể từ năm 1800. Nguồn: This Time is Different: Eight Centuries of Financial Folly [314]Xu thế gia tăng khủng khoảng do nhiều nhân tố. Một trong số đó là sự gia tăng của tỷ lệ người lao động nhận tiền công. Một điểm nổi bật của đồ thị là khủng hoảng không xảy ra ở giai đoạn thoả thuận Bretton Woods, 1945-1971. Xem thêm: Comprehensive R Archive Network (CRAN).

Chính phủ liên bang Mỹ quản lý và điều chỉnh các công ty tư nhân bằng nhiều cách khác nhau. Các quy định pháp lý bao gồm 2 nhóm chính.

Một là trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát mức giá. Thông thường, chính phủ lập nên các quy định nhằm kiểm soát độc quyền như ngành điện trong khi cho phép giá cả ở mức vẫn bảo đảm cho các công ty có lợi nhuận. Chính phủ cũng đồng thời có những kiểm soát về kinh tế đối với các lĩnh vực khác. Trong những năm sau cuộc đại suy thoái, chính phủ đã tạo nên một hệ thống phức tạp để ổn định giá cho hàng hoá nông nghiệp, loại mặt hàng có đặc thù biến động mạnh mẽ khi có sự thay đổi về cung và cầu. Một số ngành công nghiệp khác như vận tải đường bộ, hàng không cũng tự tìm ra những quy định để giới hạn việc cắt giảm giá một cách có hại.[315]

Hai là hình thức quản lý gọi là luật cạnh tranh (antitrust law), hướng đến việc làm lành mạnh hoá các lực lượng thị trường nên việc kiểm soát trực tiếp không còn cần thiết. Chính phủ và đôi khi là các tổ chức tư nhân sử dụng luật cạnh tranh để chống lại việc sáp nhập mà sẽ gây ra sự giới hạn về cạnh tranh.[315]

Các quy định pháp luật về ngân hàng tại Mỹ được đánh giá là có tính phân nhánh cao so với các quốc gia G10 khi mà hầu hết các quốc gia chỉ có một cấp kiểm soát. Tại Hoa Kỳ, các ngân hàng được điều tiết bởi cả cấp liên bang và bang. Hoa Kỳ cũng có một trong những môi trường ngân hàng bị kiểm soát cao nhất thế giới. Tuy nhiên, nhiều quy định trong số này không trực tiếp rõ ràng liên quan, mà thay vào đó tập trung vào các vấn đề như bảo mật, công bố thông tin, chống lừa đảo, chống rửa tiền, chống khủng bố, chống cho vay nặng lãi, và khuyến khích cho vay với đối tượng thu nhập thấp.

Kể từ những năm 1970, chính phủ cũng thực hiện quản lý những công ty tư nhân để thực hiện các mục tiêu xã hộim như việc nâng cao sức khoẻ và an toàn lao động hoặc duy trì môi trường sạch. Ví dụ, cơ quan sức khoẻ và an toàn nghề nghiệp ban hành quy định thực hiện về tiêu chuẩn an toàn của nơi làm việc, và cơ quan bảo vệ môi trườn Mỹ ban hành quy định thực hiện về tiêu chuẩn môi trường không khí, nước và tài nguyên. Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ kiểm soát các loại dược phẩm được bán ra thị trường, và ban hành tiêu chuẩn về công bố thông tin nguồn gốc thực phẩm.[315]

Thái độ của người Mỹ về những quy định pháp luật đã thay đổi đáng kể trong suốt ba thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Bắt đầu những năm 1970, các nhà làm chính sách bị thuyết phục rằng các quy định kinh tế bảo vệ các công ty với mức chi phí người tiêu dùng gánh chịu trong một số lĩnh vực như vận tải đường bộ hoặc hàng không. Cùng thời gian đó, sự thay đổi về kỹ thuật sinh ra nhiều đối thủ cạnh tranh mới trong một số ngành như viễn thông, nơi từng được coi là độc quyền. Cả hai hướng phát triển đều dẫn tới việc nới lỏng các quy định kiểm soát.[315]

Trong khi những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ của cả hai Đảng chính trị lớn nhất thường ủng hộ việc bãi bỏ kiểm soát kinh tế trong suốt những năm 1970, 1980, và 1990, có rất ít những thoả thuận liên quan tới việc tạo ra những chính sách điều tiết nhằm đạt được các mục tiêu xã hội. Điều tiết xã hội đã trở nên quan trọng trong những năm theo sau thời kỳ suy thoái và chiến tranh thế giới thứ hai, và các thời kỳ 1960, 1970. Trong suốt những năm 1980, chính phủ đã giảm nhẹ những quy định về lao động, tiêu dùng và môi trường dựa trên ý tưởng rằng những quy định đó can thiệp vào tự do kinh doanh, từ đó làm tăng chi phí hoạt động kinh doanh và góp phần tăng lạm phát. Nhiều người Mỹ vẫn tiếp tục đưa ra ý kiến về việc yêu cầu chính phủ cần ban hành những quy định mới trong các lĩnh vực nhất định, bao gồm việc bảo vệ môi trường.[315]

Khi nhánh hành pháp chưa có động thái trả lời, những công dân có tiếng nói chuyển qua toà án để phản ánh những vấn đề xã hội. Ví dụ trong những năm 1990, các cá nhân và thậm chí cả chính phủ đã đệ đơn kiện các công ty sản xuất thuốc lá vì những tổn hại về sức khoẻ gây ra bởi khói thuốc. Năm 1998, thoả thuận về thuốc lá đã đồng ý chi chả cho các bang khoản thanh toán dài hạn để bù đắp chi phí y tế để điều trị các căn bệnh liên quan tới hút thuốc.[315]

Từ năm 2000 đến 2008, các quy định quản lý kinh tế tại Hoa Kỳ đã được mở rộng với tốc độ nhanh chóng kể từ đầu những năm 1970. Số lượng những trang luật quy định tại Liên Bang đã tăng từ 64.438 trang mới năm 2001 lên 78.090 trang mới năm 2007, đạt mức kỷ lục. Những quy định kinh tế tiêu tốn trên 100 triệu đô la một năm đã tăng thêm 70%. Chi tiêu vào việc điều tiết kinh tế tăng 62% từ 26,4 tỷ đô la lên 42,7 tỷ đô la.[316]

Thuế

Thuế tại Mỹ là một hệ thống phức tạp liên quan đến việc chi trả ở ít nhất bốn cấp độ chính phủ và nhiều phương thức thuế. Thuế thu bởi chính quyền liên bang, bởi chính quyền bang, và thường bởi chính quyền địa phương bao gồm các hạt, vùng, thị trấn, quận và các bộ phận đặc biệt khác như cứu hoả, dịch vụ công và vận tải.[317]

Các hình thức thuế bao gồm thuế tính trên thu nhập, tài sản, doanh thu, nhập khẩu, tiền lương, quà tặng cũng như các loại phí khác nhau. Nếu cộng tổng tất cả các loại thuế thu ở tất cả cấp độ chính phủ thì tổng thuế chiếm xấp xỉ một phần tư GDP năm 2011. Thị phần chợ đen (các giao dịch kinh tế ngầm) ở Mỹ là rất thấp so với các quốc gia khác.[318]

Hệ thống thuê của Mỹ đang có sự thay đổi tiến bộ, đặc biệt ở mức độ liên bang, và là một trong những quốc gia có luật thuế tiến bộ nhất trong các quốc gia phát triển.[319][320][321][322] Đang có những tranh luận về việc liệu các sắc thuế có nên tiến bộ hơn hay không.[323][324][325][326]

Chi tiêu

Chi tiêu của chính quyền liên bang Mỹ năm tài khoá 2015.Thu ngân sách của chính quyền liên bang Mỹ năm tài khoá 2015.

The United States public-sector spending amounts to about 30% of GDP.

Chi tiêu khu vực công của Hoa Kỳ hiện chiếm khoảng 30% GDP.

Mỗi một cấp độ chính phủ cung cấp nhiều loại dịch vụ trực tiếp khác nhau. Ví dụ cấp độ chính phủ liên bang chịu tránh nhiệm cho quốc phòng, việc nghiên cứu thường dẫn đến sự phát triển của những sản phẩm mới, tiến hành khám phá vũ trụ, và chạy các chương trình để giúp người lao động phát triển được kỹ năng nghề nghiệp và tìm được việc làm (bao gồm cả giáo dục cao hơn). Chi tiêu chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế vùng và địa phương, cũng như trong việc tăng tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.

Chính quyền bang trong khi đó chịu trách nhiệm cho việc xây dựng và duy trì hầu hết hệ thống đường cao tốc. Chính các hạt, thành phố đóng vai trò tiên phong trong việc tài trợ và vận hành các trường học công. Chính quyền địa phương chủ yếu chịu trách nhiệm về cảnh sát và cứu hoả.

Hệ thống phúc lợi xã hội tại Hoa Kỳ bắt đầu vào những năm 1930, trong suốt thời kỳ Đại suy thoái với đường lối của chính sách mới (New Deal). Hệ thống phúc lợi này sau đó được mở rộng vào 1960 thông đề xuất Great Society, bao gồm hệ thống bảo hiểm Medicare, Medicaid, đạo luật trợ giúp người cao tuổi Mỹ và quỹ tài trợ giáo dục liên bang.

Tính tổng cộng, chi tiêu của chính quyền liên bang, bang và địa phương chiếm khoảng 28% tổng GDP năm 1998.[327]

Đến ngày 20 tháng 1 năm 2009, tổng nợ của Hoa Kỳ là 10,63 nghìn tỷ đô la.[328] Trần nợ công năm 2005 là 8,18 nghìn tỷ đô la.[329] Vào tháng 3 năm 2006, Quốc hội Mỹ đã tăng mức trần thêm 0,79 nghìn tỷ đô la lên 8,97 nghìn tỷ đô la, tức xấp xỉ 68% GDP.[330] Đến ngày 4 tháng 10 năm 2008, đạo luật ổn định kinh tế khẩn cấp 2008 đã tăng mức trần nợ công lên 11,3 nghìn tỷ đô la.[331]

Nợ của chính quyền liên bang đã tăng 680 tỷ đô là năm 2013, lên mức 17,091 nghìn tỷ đô la năm 2014.[332] Trong khi nợ công của Hoa Kỳ đạt mức cao nhất thế giới về giá trị tuyệt đối, một cách tính khác là số tương đối tương quan với GDP quốc gia. Đến tháng 10 năm 2013, tổng nợ bằng 107% GDP.[333] Khoản nợ này tính theo GDP vẫn thấp hơn số nợ của Nhật Bản (192%) và tương đương với một số quốc gia Tây Âu.[334]

Ngân sách

Xem thêm thông tin: United States budget

Theo báo cáo của CBO, đến tháng 10 năm 2014, chính quyền liên bang đã thâm hụt ngân sách 486 tỷ đô la trong năm tài chính 2014, ít hơn 195 tỷ đô la so với thâm hụt năm 2013, và là mức thâm hụt ít nhất kể từ năm 2008. Tương quan với quy mô của nền kinh tế, mức thâm hụt đó ước bằng 2,8% GDP, thấp hơn một chút so với mức bình quân trong 40 năm qua, và 2014 là năm thứ 5 liên tiếp thâm hụt ngân sách giảm tính theo phần trăm trên GDP kể từ đỉnh điểm 9,8% năm 2009.

Chi tiêu ngân sách năm tài chính 2011[335]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kinh_tế_Hoa_Kỳ http://www.aci.aero/News/Releases/Most-Recent/2014... http://www.abc.net.au/news/stories/2009/12/15/2771... http://europe.chinadaily.com.cn/epaper/2011-07/01/... http://www.amtrak.com/servlet/BlobServer?blobcol=u... http://www.barclayswealth.com/files/volume5.pdf http://www.bbc.com/news/business-36599316 http://www.boston.com:80/news/politics/2008/articl... http://www.briskfox.com/open/years/2009_q1/do_v_c4... http://www.businessinsider.com/balance-of-goods-us... http://www.capgemini.com/insights-and-resources/by...